Pháp luật hiện hành về hôn nhân đồng giới ở Việt Nam

CÂU HỎI CỦA KHÁCH HÀNG:

Chào các anh chị,

Em được biết, công dân có quyền làm những điều mà pháp luật không cấm. Đề nghị các anh chị cho em hỏi, Luật Hôn nhân gia đình không cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính với nhau. Tại sao khi chúng em đến Ủy ban nhân dân Phường để hỏi thủ tục thì cán bộ tư pháp tại đây lại trả lời pháp luật hiện nay không thừa nhận quan hệ hôn nhân giữa hai người và từ chối cho chúng em đăng ký kết hôn?

Chúng em đã sống với nhau rồi, quan hệ tình cảm và tài sản áp dụng như vợ chồng có được không

LUẬT SƯ TƯ VẤN

Theo khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”.

Đúng như thông tin bạn đã biết, pháp luật về hôn nhân và gia đình không cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính. Bởi vì, khoản 2 Điều 5 của Luật này chỉ quy định cấm các hành vi sau đây:

“a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;

b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;

c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;

d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;

đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;

e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;

g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;

h) Bạo lực gia đình;

i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi”.

Tuy nhiên, điều kiện kết hôn được quy định cụ thể tại Điều 8 của Luật này. Đó là:

“1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:

a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;

b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;

c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;

d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.

2.Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”.

Căn cứ các quy định nêu trên, việc kết hôn chỉ đặt ra giữa nam và nữ khi đáp ứng điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn theo đúng trình tự, thủ tục. Pháp luật hiện nay không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.

Cũng chính vì vậy, việc các bạn sống chung với nhau không làm phát sinh quan hệ hôn nhân. Nói cách khác, giữa hai người không phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng được giải quyết theo thỏa thuận. Trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Ví dụ, tài sản có thể thuộc sở hữu riêng của từng người hoặc thỏa thuận là tài sản chung của hai người. Quyền sở hữu chung, theo Điều 208 Bộ luật Dân sự năm 2015, “được xác lập theo thỏa thuận, theo quy định của pháp luật hoặc theo tập quán”. Các chủ sở hữu chung cùng quản lý tài sản chung theo nguyên tắc nhất trí, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật.

Việc chia tài sản thuộc sở chung sẽ được thực hiện theo Điều 219 của Bộ luật này. Cụ thể:

“1. Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác.

2.Trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán”.

Tóm lại, pháp luật về hôn nhân và gia đình không cấm, nhưng cũng không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.

Gọi điện cho tôi Gửi tin nhắn Facebook Messenger Chat Zalo Xem bản đồ
Gọi ngay Form Liên hệ Messenger Zalo Bản đồ