Câu hỏi:
Tôi có cho H vay tiền 50 triệu đồng nhưng không có giấy vay nợ trong thời hạn 6 tháng không lấy lãi. Tôi đã đòi nhiều lần mà H không trả. H còn lật lọng cho rằng vì giữa chúng tôi không có giấy vay nợ nên bạn ấy không có trách nhiệm phải trả. Trong lúc tức giận tôi đã đánh H với tỷ lệ thương tật lên tới 31%. Xin hỏi tôi có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Sau thời điểm 6 tháng tôi có quyền yêu cầu H trả lãi với khoản vay này không?
Trả lời:
Tại Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay như sau:
“Điều 466. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay
1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.”
Như vậy, H đã vay của bạn 50 triệu đồng thì H phải có nghĩa vụ trả nợ cho bạn. Việc giữa bạn và H không có giấy vay nợ không có nghĩa là H không có trách nhiệm trả nợ cho bạn. Giấy vay nợ (nếu có )cũng chỉ thể hiện là một bằng chứng xác định H đã vay tiền của bạn. Việc H không trả tiền cho bạn, bạn có thể khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền. Bạn có thể sử dụng nhiều chứng cứ khác để chứng minh H đã vay tiển của mình như qua điện thoại, qua bạn bè làm chứng…tại Tòa án.
Tại khoản 4 Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.”
Điều 468. Lãi suất:
1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.
Như vậy, bạn có quyền yêu cầu H trả thêm khoản lãi tiền vay sau thời hạn 6 tháng. Bạn và H có thể thảo thuận mức lãi suất, trong trường hợp không thỏa thuận được thì lãi suất được xác định là 10%/năm.
Tuy nhiên, việc H không trả tiền bạn mà bạn trong lúc tức giận đã đánh H bị thương tật tới 31% là hành vi vi phạm pháp luật. Bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 135 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
“Điều 135. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người.”