CÂU HỎI KHÁCH HÀNG:
Vợ chồng tôi ly hôn. Theo quyết định của Tòa án, vì con chung của chúng tôi còn nhỏ nên tôi được nuôi cháu, bố cháu chịu trách nhiệm cấp dưỡng cho cháu với số tiền 2 triệu đồng/tháng.
Tuy nhiên, bố của cháu đã viện ra rất nhiều lý do để không thực hiện nghĩa vụ này, cho dù tôi biết chắc chắn đó không phải là số tiền lớn so với mức thu nhập và khả năng của bố cháu.
Có người tư vấn tôi làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết. Thậm chí, bố của cháu còn có thể bị pháp luật xử lý nếu cố tình trốn trành trách nhiệm cấp dưỡng cho con.
Xin hỏi, thông tin này có đúng hay không?
LUẬT SƯ TRẢ LỜI:
Theo khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, “cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này”.
Nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định tại Điều 107 của Luật này như sau:
“1. Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của Luật này.
Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác.
2. Trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh nghĩa vụ thì theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại Điều 119 của Luật này, Tòa án buộc người đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật này”.
cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Theo như thông tin của bạn, Tòa án quyết định bố của cháu phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con với mức 2 triệu đồng/tháng. Số tiền này nằm trong khả năng, điều kiện nhưng bố cháu không thực hiện. Do vậy, bạn có quyền yêu cầu Tòa án buộc bố cháu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Bởi lẽ, Điều 119 của Luật này quy định người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng như sau:
“1. Người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó”.
Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con đã được Tòa án quyết định trước đó. Bố của cháu không thực hiện có thể bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng vì đã có hành vi “không thực hiện công việc phải làm, không chấm dứt thực hiện công việc không được làm theo bản án, quyết định” được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 52 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ.
Thậm chí, tùy theo tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi, bố của cháu còn có thể bị xử lý về Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định tại Điều 186 Văn bản hợp nhất Bộ luật Hình sự số 01/VBHN-VPQH ngày 10/7/2017 của Văn phòng Quốc hội. Đó là: “Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 380 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”.