Nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba sau khi ly hôn.

CÂU HỎI CỦA KHÁCH HÀNG

Tôi có cho vợ chồng đồng nghiệp mượn tiền, không lấy lãi, không ghi thời hạn trả. Lý do, họ xây nhà bị thiếu tiền, làm cùng cơ quan với người chồng nên anh em trong cơ quan, trong đó có tôi giúp đỡ.

Vợ chồng họ thỏa thuận ly hôn, không thông báo cho cơ quan biết. Cũng vì thế, khi anh chồng luân chuyển công tác, mọi người muốn đòi lại tiền thì vỡ lẽ Tòa án giải quyết để người vợ sử dụng ngôi nhà. Vấn đề là anh chồng không có khả năng thanh toán, người vợ thì thoái thác trách nhiệm.

Trong trường hợp này, tôi có thể yêu cầu người vợ trả tiền cho mình được không?

TƯ VẤN CỦA LUẬT SƯ

Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Theo Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, “trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn”.

Vợ chồng người đồng nghiệp của bạn tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, được Tòa án công nhận. Tuy nhiên, như thông tin bạn cung cấp, căn nhà của họ xây dựng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của hai người. Bởi vì, Điều 33 của Luật này quy định:

“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

2.Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3.Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.

Về nguyên tắc, khi ly hôn mà trước đó vợ chồng họ thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận. nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

Theo Khoản 2 Điều 59 của Luật này, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

“a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng”.

Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

Căn cứ quy định nêu trên, về nguyên tắc tài sản chung được chia đôi. Người vợ được chia ngôi nhà, có thể phải thanh toán một khoản tiền tương ứng ½ ngôi nhà cho người chồng.

Cho dù trong trường hợp nào, ngay cả khi có tranh chấp vợ chồng họ vẫn có trách nhiệm trả nợ số tiền đã mượn của bạn. Bởi vì, Điều 60 của Luật này quy định giải quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba khi ly hôn như sau:

“1. Quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác.

2.Trong trường hợp có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ tài sản thì áp dụng quy định tại các điều 27, 37 và 45 của Luật này và quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết”.

Ví dụ, theo Điều 37 của Luật này, vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:

“1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;

2.Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;

3.Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;

4.Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;

5.Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;

6.Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan”.

Vì nghĩa vụ tài sản của vợ chồng họ sau khi ly hôn với bạn vẫn có hiệu lực, nếu họ không tự nguyện trả, bạn có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc đòi lại tài sản.

Gọi điện cho tôi Gửi tin nhắn Facebook Messenger Chat Zalo Xem bản đồ
Gọi ngay Form Liên hệ Messenger Zalo Bản đồ