XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU VỚI TÀI SẢN VÔ CHỦ MỚI NHẤT

CÂU HỎI CỦA KHÁCH HÀNG:

Một đêm khi đi làm ca về, tôi phát hiện có chiếc túi vải treo ở cửa ra vào nhà mình. Mở ra, trong đó có một số tiền mặt lớn nhưng không có thông tin gì về người chủ của nó. Tôi đã chụp ảnh, đăng thông tin lên một số trang mạng đông thành viên. Gần chục người liên hệ lại, nhưng chỉ để trêu đùa.

Xin hỏi, tôi có đương nhiên được sở hữu số tiền này hay không?

 

TRẢ LỜI CỦA LUẬT SƯ:

Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về Tài sản như sau:

“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

 2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”.

Theo khoản 6 Điều 221 Bộ luật này, một trong những trường hợp quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản là: “Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu; tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy; tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên; gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên”. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu được quy định tại Điều 228 của Bộ luật này”. Cụ thể:

1. Tài sản vô chủ là tài sản mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản đó. Người đã phát hiện, người đang quản lý tài sản vô chủ là động sản thì có quyền sở hữu tài sản đó, trừ trường hợp luật có quy định khác; nếu tài sản là bất động sản thì thuộc về Nhà nước.

2. Người phát hiện tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu phải thông báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại”.

Việc giao nộp phải được lập biên bản, trong đó ghi rõ họ, tên, địa chỉ của người giao nộp, người nhận, tình trạng, số lượng, khối lượng tài sản giao nộp. Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người phát hiện về kết quả xác định chủ sở hữu.

Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định được ai là chủ sở hữu tài sản là động sản thì quyền sở hữu đối với động sản đó thuộc về người phát hiện tài sản.

Sau 05 năm, kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định được ai là chủ sở hữu tài sản là bất động sản thì bất động sản đó thuộc về Nhà nước; người phát hiện được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật”.

Chủ sở hữu có thể tự chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản của mình bằng cách tuyên bố công khai hoặc thực hiện hành vi chứng tỏ việc mình từ bỏ quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản đó. Nếu thuộc trường hợp chủ sở hữu từ bỏ và bạn là người phát hiện, đang quản lý, về nguyên tắc bạn có quyền sở hữu đối với số tiền này.

Tuy nhiên, theo chúng tôi, trường hợp của bạn có thể là: Bạn phát hiện ra số tiền nhưng không xác định được ai là chủ sở hữu. Căn cứ quy định nêu trên, bạn có nghĩa vụ thông báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết, nhận lại. Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận số tiền mà bạn giao nộp sẽ tiến hành các thủ tục có liên quan để xác định chủ sở hữu và thông báo kết quả cho bạn. Sau một năm, kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định được ai là chủ sở hữu, quyền sở hữu đối với số tiền thuộc về bạn với tư cách là người phát hiện tài sản.

Bên cạnh đó, cũng có thể số tiền này do người khác đánh rơi, bỏ quên tại cửa nhà bạn nhưng bạn không biết địa chỉ của họ. Nếu thuộc trường hợp này, việc xác lập quyền sở hữu được thực hiện theo quy định tại Điều 230 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Đó là:

“1. Người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu.

2. Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai về tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau:

a) Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bỏ quên có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người nhặt được được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của Bộ luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; trường hợp tài sản có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì sau khi trừ chi phí bảo quản, người nhặt được được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước;

b) Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hoá theo quy định của Luật di sản văn hóa thì tài sản đó thuộc về Nhà nước; người nhặt được tài sản được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật”.

Khác với trường hợp số tiền bạn phát hiện ra thuộc đối tượng không xác định được ai là chủ sở hữu, trong trường hợp này, sau một năm kể từ ngày thông báo mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo nguyên tắc nêu trên.

Gọi điện cho tôi Gửi tin nhắn Facebook Messenger Chat Zalo Xem bản đồ
Gọi ngay Form Liên hệ Messenger Zalo Bản đồ